Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Internet, nhất là của các trang Social Media các chiến dịch marketing
trong thời buổi công nghệ không thể nào bỏ qua mảnh đất màu mỡ của
Viral marketing, chỉ cần một cái click chuột vào nút thích và nút chia
sẻ hay post link lên trang đánh dấu link thì nội dung truyền tải lập tức
hiện diện trong cộng đồng mạng.
Internet Viral Marketing đang lên ngôi

Đây là hình thức sử dụng sức mạnh truyền
thông của cộng đồng cư dân mạng để đưa thông điệp của mình lan tỏa tới
đối tượng khách hàng mục tiêu. Trong quá khứ, nó đồng nghĩa với thuật
ngữ “Words of Mouth” tức là maketing truyền miệng. Tuy nhiên ngày nay
Viral Marketing không chỉ là “truyền miệng” đơn thuần nữa mà nó được
thực hiện trên nhiều phương tiện khác nhau nhờ sự phát tán qua blog,
mạng xã hội, các trang chia sẻ clip, hình ảnh, tin nhắn nhanh, e-mail…
Và nếu ai đó có nhắc đến “Words of Mouth” thì ta cần phải hiểu đó cũng
có thể là “Words of Social network”, “Words of SMS”…
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
Internet, nhất là của các trang Social Media các chiến dịch marketing
trong thời buổi công nghệ không thể nào bỏ qua mảnh đất màu mỡ của Viral
marketing, chỉ cần một cái click chuột vào nút thích và nút chia sẻ hay
post link lên trang đánh dấu link thì nội dung truyền tải lập tức hiện
diện trong cộng đồng mạng.
Thông điệp của Viral marketing
thường là một ý tưởng gây chú ý, tò mò, gây cười, được thể hiện dưới
dạng clip, hình ảnh, một cuộc thi, một sự kiện gây chú ý hay đơn giản là
một đoạn text. Thành công của một chiến dịch Viral Marketing là làm cho
người ta thích thú với thông điệp đưa ra và tự nhiên lan truyền thông
điệp quảng cáo cho nhau, có thể thông qua gởi link, đăng trên blog…
Người xem có thể khen-chê, hưởng ứng, phẫn nộ nhưng cái quan trọng là
càng ngày càng nhiều người bị “lây nhiễm”, và mức độ nhận biết thương
hiệu của khách hàng theo đó mà tăng lên.
Những công cụ để thực hiện Internet Viral Marketing
Tại Việt Nam hiện nay, một số công cụ phổ biến để thực hiện Internet Viral Marketing bao gồm:
- Social Networks (Mạng xã hội):
Các mạng xã hội mang tính kết nối như là những cộng đồng lớn và là đối
tượng mục tiêu của những người làm Viral Marketing. Tùy vào đối tượng
khách hàng mà sản phẩm nhắm tới, người ta sẽ lựa chọn các MXH phù hợp.
Ví dụ nếu đối tượng là dân văn phòng thì MXH tập trung nhiều người trong
số họ sẽ là Facebook, Henantrua, Noi.vn, Tamtay.vn, LinkedIn…,
đối tượng sinh viên, học sinh thì MXH mang tính chất trẻ hơn như Zing
Me, Yume, Go.vn, Cyworld, Truongxua, I-pro.vn… là phù hợp.

Personal Publishing (Xuất bản mang tính cá nhân): Hình thức blog tuy có đôi chút thoái trào ở Việt Nam kể từ khi Yahoo
360 ra đi tuy nhiên WordPress, Opera, Yahoo 360 Plus, Multiply… vẫn quy
tụ nhiều gương mặt hot blogger hay còn gọi là “những người gây ảnh
hưởng”. Đây là đối tượng mà người làm Viral Marketing muốn nhắm vào để
tác động đến các nhóm đối tượng thường xuyên đọc blog của họ. Micro blog
như Tumblr, Twitter
là một trào lưu rất thịnh hành trên thế giới nhưng tại Việt Nam xem ra
lại không được ưa chuộng lắm, có lẽ do Facebook đã làm quá tốt phần việc
của nó rồi, cho nên hiện nay người làm Viral Marketing cũng chưa chú
trọng lắm mảng micro blogging này.
Instant Message (Tin
nhắn nhanh): Ở Việt Nam, phần mềm tin nhắn nhanh phổ biến nhất chiếm vị
thế áp đảo vẫn là Yahoo Messenger. Người dùng thích chia sẻ những link
mà họ cho là hay ho, thú vị cho bạn bè qua Yahoo Messenger. Skype,
Paltalk, MSN, Google Talk… cũng là những phần mềm nhắn tin nhanh được
một bộ phận người Việt Nam sử dụng, tuy nhiên mức độ phổ biến của chúng
không cao nên có thể coi (ở Việt Nam) Instant Message = Yahoo Messenger.
Online seeding (Gieo
mầm điện tử): Cái tên đã nói lên bản chất vấn đề. Với phương tiện chủ
yếu là forum (vốn rất thịnh hành ở Việt Nam), những người làm Online
Seeding hay Forum Seeding phát tán thông điệp của họ trên các trang diễn
đàn để thu hút thành viên chú ý đến topic của họ. Việc này về nguyên lý
thì hết sức đơn giản, nhưng để tạo được một topic gây chú ý thực sự,
kích thích bình luận, tranh luận giữa các thành viên là cả một nghệ
thuật mà không phải Forum Seeder nào cũng làm được.
Other Social Media (Các
trang truyền thông xã hội khác): Thực ra Social Media đã bao gồm cả các
khái niệm Social Networks, Blog, diễn đàn, Instant Message kể trên
nhưng sở dĩ người viết tách riêng các mảng kia ra vì nó quá rộng lớn.
Phần còn lại của Social Media có thể kể đến những trang chia sẻ clip (Youtube,
Clip.vn…), chia sẻ hình ảnh (Flickr, Photobucket…), chia sẻ tài liệu
(Slideshare, Scribd…), đánh dấu trang (Linkhay, Buzz.vn, Tagvn…), chia
sẻ, hỏi đáp (Wikipedia, Yahoo Answer…), tìm đường, tìm địa điểm
(Diadiem, Vietbando, Thodia), giao dịch mua bán qua mạng (Chodientu,
Enbac, 123mua…), mua hàng theo nhóm (Cungmua, Muachung, Zing Deal…)…
Brand SMS: Nếu là lần đầu
tiên bạn nhận được 1 tin nhắn quảng cáo, thông báo… mà tên người gởi là
Nokia, Sunsilk hay Trung tâm tiếng Anh nào đó, chắc chắn bạn sẽ ngạc
nhiên vì mình đâu có lưu trong danh bạ điện thoại tên ai là Nokia, là
Sunsilk… Nhưng đó chính là hình thức BrandSMS – là dịch vụ gởi tin nhắn
chủ động chuyên gửi tin nhắn quảng cáo tới khách hàng là các thuê bao
mạng điện thoại, có khả năng tạo tên đơn vị gửi riêng (header-name) hoặc
để tên tổng đài gởi tin.
Các bước thực hiện một chiến dịch Viral Marketing
Nghiên cứu
Cần phải xác định sản phẩm, thương hiệu
sẽ làm viral marketing có tính chất gì, khách hàng mục tiêu của nó có
những đặc điểm ra sao từ đó chúng ta mới có phương pháp tiếp cận phù
hợp. Ví dụ sản phẩm cần làm viral là một loại smart phone dành cho nam
nhân viên văn phòng, ta sẽ xem xét những nhu cầu, mong muốn của họ, xem
thử có thể khai thác khía cạnh nào liên quan đến sản phẩm hi-tech. Ví dụ
các nam nhân viên văn phòng thường muốn thể hiện sự chuyên nghiệp của
mình qua một chiếc smart phone có những tiện ích văn phòng đa dạng, họ
muốn check mail và online mọi lúc mọi nơi, họ thích khoe với bạn bè về
những đồ hi tech mình sở hữu…
Sau đó ta xác định xem smart phone của chúng ta đáp ứng được những nhu cầu nào trong số những nhu cầu của họ, những điểm được và chưa được của sản phẩm của chúng ta so với các sản phẩm của đối thủ khác…
Chúng ta cũng cần xác định xem những khách hàng này thường xuyên lui tới ở những trang web nào. Với sản phẩm smart phone kể trên, khách hàng có thể có thể sử dụng một số mạng xã hội như Facebook, Yahoo 360Plus… – là các mạng mà dân văn phòng hay sử dụng, họ có thể lui tới các diễn đàn công nghệ như handheldvn, tinhte…, những diễn đàn, webiste đánh dấu trang mà nam giới thường hay ghé thăm như otofun, linkhay… cũng có thể quy tụ nhiều người trong số họ. Hãy nghiên cứu thêm các website này để nắm được các xu hướng thảo luận, sở thích của họ nhằm có cách tiếp cận tốt nhất. Bằng một số công cụ như Google Ad Planner, thậm chí chúng ta có thể xác định các website mà họ hay lui tới ngoài các website chúng ta đã định ra.
Sau đó ta xác định xem smart phone của chúng ta đáp ứng được những nhu cầu nào trong số những nhu cầu của họ, những điểm được và chưa được của sản phẩm của chúng ta so với các sản phẩm của đối thủ khác…
Chúng ta cũng cần xác định xem những khách hàng này thường xuyên lui tới ở những trang web nào. Với sản phẩm smart phone kể trên, khách hàng có thể có thể sử dụng một số mạng xã hội như Facebook, Yahoo 360Plus… – là các mạng mà dân văn phòng hay sử dụng, họ có thể lui tới các diễn đàn công nghệ như handheldvn, tinhte…, những diễn đàn, webiste đánh dấu trang mà nam giới thường hay ghé thăm như otofun, linkhay… cũng có thể quy tụ nhiều người trong số họ. Hãy nghiên cứu thêm các website này để nắm được các xu hướng thảo luận, sở thích của họ nhằm có cách tiếp cận tốt nhất. Bằng một số công cụ như Google Ad Planner, thậm chí chúng ta có thể xác định các website mà họ hay lui tới ngoài các website chúng ta đã định ra.

Xác định mục đích, mục tiêu làm viral marketing
Một chiến dịch viral marketing có thể có
nhiều mục đích nhưng nhất định phải có một mục đích được ưu tiên nhất,
để dựa vào đó chúng ta làm cho chiến dịch marketing đi đúng hướng, không
bị “trật đường rày” khỏi mong muốn ban đầu. Nó có thể là nhằm quảng bá
thương hiệu, có thể nhằm thúc đẩy doanh số, thu hút khán giả tham gia sự
kiện, thông báo về một sản phẩm vừa tung ra, hay để cải thiện hình ảnh
của thương hiệu đang bị đi xuống. Một chiến dịch viral marketing thành
công là một chiến dịch làm cho phản hồi của khán giả đúng như mong muốn
ban đầu chúng ta đã định ra.
Để xác định được cái đích cần đi đến của chiến dịch viral marketing, chúng ta cần xác định được các mục tiêu để đánh giá hiệu quả của nó. Với viral marketing trên Internet, mục tiêu đó sẽ là số lượng traffic (lượng truy cập) đổ về website của sản phẩm vào thời điểm làm viral, tỷ lệ người mở email quảng bá sản phẩm, số lượng người quan tâm nhấn Like, vote, follow hay số người đăng ký làm thành viên, tỷ lệ người giới thiệu link cho người khác (bằng một số kỹ thuật, người ta có thể xác định được một thành viên người đã gởi link đó cho bao nhiêu người mà những người đó phản hồi lại, như đăng ký, mua hàng, gởi bài thi…)…
Phối hợp cùng các mục tiêu về doanh số, thị phần, hay số lượng bài thi gởi về (nếu là cuộc thi) cùng những cảm nhận định tính về phản hồi tích cực, tiêu cực của khán giả đối với thông điệp đưa ra, chúng ta sẽ xây dựng được một cái đích để hướng chiến dịch Viral marketing đạt đến đó.
Để xác định được cái đích cần đi đến của chiến dịch viral marketing, chúng ta cần xác định được các mục tiêu để đánh giá hiệu quả của nó. Với viral marketing trên Internet, mục tiêu đó sẽ là số lượng traffic (lượng truy cập) đổ về website của sản phẩm vào thời điểm làm viral, tỷ lệ người mở email quảng bá sản phẩm, số lượng người quan tâm nhấn Like, vote, follow hay số người đăng ký làm thành viên, tỷ lệ người giới thiệu link cho người khác (bằng một số kỹ thuật, người ta có thể xác định được một thành viên người đã gởi link đó cho bao nhiêu người mà những người đó phản hồi lại, như đăng ký, mua hàng, gởi bài thi…)…
Phối hợp cùng các mục tiêu về doanh số, thị phần, hay số lượng bài thi gởi về (nếu là cuộc thi) cùng những cảm nhận định tính về phản hồi tích cực, tiêu cực của khán giả đối với thông điệp đưa ra, chúng ta sẽ xây dựng được một cái đích để hướng chiến dịch Viral marketing đạt đến đó.
Xác định thông điệp làm viral.
Dựa trên những nghiên cứu kể trên, dựa
trên mục đích, mục tiêu đề ra, chúng ta sẽ suy nghĩ ra những thông điệp
sát sườn nhất. Một chiến dịch Viral Marketing chỉ thành công khi kích
thích sự quan tâm, phản hồi, lan truyền… nên nếu thông điệp và cách thức
hành động của chúng ta không làm được điều đó thì chiến dịch đó chỉ coi
như một chương trình spam quảng cáo đơn thuần.
Quay trở lại với ví dụ về sản phẩm smart phone ở trên, trong thực tế đã có một công ty đi một chiêu bài thông minh, đó là nương theo làn sóng dư luận về iPhone 4 bị lỗi bắt sóng để gây chú ý và tự đề cao sản phẩm của mình. Công ty đó là Samsung, họ đã cho thực hiện tại Anh chương trình “Tặng Galaxy S cho người dùng iPhone 4”, qua đó họ khéo léo truyền đi thông điệp “Các vị đã phát chán vì chiếc iPhone trục trặc của mình rồi à, chúng tôi tự tin là sản phẩm Galaxy S sẽ là một sự thay thế hoàn hảo cho iPhone đó”. Chỉ tiến hành ở một nước, và chỉ “rỉ tai” với những người dùng iPhone 4 thế nhưng thông tin trên đã lan rất nhanh trên báo chí, và được xen lẫn vào giữa những chủ đề bàn tán của các blogger, các người dùng diễn đàn… về sự cố iPhone 4. Rồi người ta bắt đầu tò mò về chiếc Galaxy S, họ bàn tán, so sánh, tranh luận về nó khá hăng say, xem thử có thật là Galaxy S có thể sánh ngang với iPhone hay không. Nếu Samsung chỉ đơn giản tung quảng cáo khắp nơi, ra rả spam ở các diễn đàn, các trang Social Media thì có lẽ không có “lực lượng” người tình nguyện lan truyền miễn phí thông điệp của họ hùng hậu đến như vậy.
Thông điệp để làm Viral càng ngắn gọn, dễ hiểu thì càng dễ thành công. Thực tế cho thấy những thông điệp hài hước, gây tò mò hoặc mang tính thời sự mà nhiều người đang quan tâm… thì dễ được tiếp nhận nhất.
Quay trở lại với ví dụ về sản phẩm smart phone ở trên, trong thực tế đã có một công ty đi một chiêu bài thông minh, đó là nương theo làn sóng dư luận về iPhone 4 bị lỗi bắt sóng để gây chú ý và tự đề cao sản phẩm của mình. Công ty đó là Samsung, họ đã cho thực hiện tại Anh chương trình “Tặng Galaxy S cho người dùng iPhone 4”, qua đó họ khéo léo truyền đi thông điệp “Các vị đã phát chán vì chiếc iPhone trục trặc của mình rồi à, chúng tôi tự tin là sản phẩm Galaxy S sẽ là một sự thay thế hoàn hảo cho iPhone đó”. Chỉ tiến hành ở một nước, và chỉ “rỉ tai” với những người dùng iPhone 4 thế nhưng thông tin trên đã lan rất nhanh trên báo chí, và được xen lẫn vào giữa những chủ đề bàn tán của các blogger, các người dùng diễn đàn… về sự cố iPhone 4. Rồi người ta bắt đầu tò mò về chiếc Galaxy S, họ bàn tán, so sánh, tranh luận về nó khá hăng say, xem thử có thật là Galaxy S có thể sánh ngang với iPhone hay không. Nếu Samsung chỉ đơn giản tung quảng cáo khắp nơi, ra rả spam ở các diễn đàn, các trang Social Media thì có lẽ không có “lực lượng” người tình nguyện lan truyền miễn phí thông điệp của họ hùng hậu đến như vậy.
Thông điệp để làm Viral càng ngắn gọn, dễ hiểu thì càng dễ thành công. Thực tế cho thấy những thông điệp hài hước, gây tò mò hoặc mang tính thời sự mà nhiều người đang quan tâm… thì dễ được tiếp nhận nhất.
Ý tưởng và công cụ sử dụng
Có được một thông điệp tốt là ta đã có
được 50% thành công, nhưng phải có một kịch bản xuất hiện phù hợp thì
mới đạt được sự quan tâm của cộng đồng mạng.
Gần đây nhân cơ hội Facebook bị chặn đang làm cho cộng đồng mạng chộn rộn bàn tán, một clip được cho là của mạng xã hội Banbe.net tung ra để kéo khách từ Facebook sang mạng của mình đã gây thích thú và lan truyền trong cư dân mạng. Dựa trên một đoạn phim Tây Du Ký, người tạo ra nó đã xây dựng một kịch bản, đại loại là Tôn Ngộ Không thuyết phục Sư phụ và các đồ đệ bỏ Facebook sang Banbe.net, bên này có nhiều điều thú vị mà đỡ phải mệt đầu lo đổi IP để vào Facebook. Phim Tây Du Ký gắn liền với ký ức tuổi thơ của mỗi người, nay được xây dựng lại với những ngôn ngữ, những yếu tố rất đời thường mà cũng rất thời sự, ngay lập tức được mọi người thích thú truyền tay nhau và hiện nay nó đã xuất hiện tràn lan trên mạng.
Gần đây nhân cơ hội Facebook bị chặn đang làm cho cộng đồng mạng chộn rộn bàn tán, một clip được cho là của mạng xã hội Banbe.net tung ra để kéo khách từ Facebook sang mạng của mình đã gây thích thú và lan truyền trong cư dân mạng. Dựa trên một đoạn phim Tây Du Ký, người tạo ra nó đã xây dựng một kịch bản, đại loại là Tôn Ngộ Không thuyết phục Sư phụ và các đồ đệ bỏ Facebook sang Banbe.net, bên này có nhiều điều thú vị mà đỡ phải mệt đầu lo đổi IP để vào Facebook. Phim Tây Du Ký gắn liền với ký ức tuổi thơ của mỗi người, nay được xây dựng lại với những ngôn ngữ, những yếu tố rất đời thường mà cũng rất thời sự, ngay lập tức được mọi người thích thú truyền tay nhau và hiện nay nó đã xuất hiện tràn lan trên mạng.
Như vậy thì ý tưởng công cụ truyền tải
thông điệp đóng vai trò khá quan trọng, sử dụng ý tưởng tốt, công cụ phù
hợp, hình thức trình bày có chất lượng sẽ góp phần đáng kể vào thành
công của chiến dịch.

Một số ý tưởng làm Viral Marketing trên Internet
Nguồn phát tán của thông điệp cũng đóng
vai trò quan trọng. Nếu nguồn phát tán là từ những người, những tổ chức
có tầm ảnh hưởng dư luận như các tờ báo, trang tin đông người xem, hot
blogger, chủ các trang mạng xã hội nhiều bạn bè trong friend list,
admin/mod hay các thành viên có uy tín ở các diễn đàn (gọi là influencer
hay power user).. thì sẽ dễ dàng kích thích sự quan tâm từ dư luận. Còn
nếu thông điệp được tung ra bởi một người bình thường không có gì gây
chú ý thì cũng có thể thành công, nhưng sẽ phải nỗ lực nhiều hơn.
Nhắc lại cho các bạn một ví dụ, “hiện tượng” Thủy Top được giới thiệu lần đầu tiên bởi Hot blogger OnlyU, sau đó được Kênh 14 – một trang tin lá cải thu hút nhiều thành phần tuổi teen truy cập – đăng thêm một bài giới thiệu, và thế là cô ta nổi như cồn từ đó.
Nhắc lại cho các bạn một ví dụ, “hiện tượng” Thủy Top được giới thiệu lần đầu tiên bởi Hot blogger OnlyU, sau đó được Kênh 14 – một trang tin lá cải thu hút nhiều thành phần tuổi teen truy cập – đăng thêm một bài giới thiệu, và thế là cô ta nổi như cồn từ đó.
Để chiến dịch không đi “trật đường rày”:
Thông điệp được truyền tải có khi nào vô
tình bị người tiếp nhận “bẻ lái” làm trật con đường mà chiến dịch Viral
Marketing đang hướng tới? Phản ứng của người tiếp nhận khi nhận được
thông điệp không được tốt cho lắm làm cho chiến dịch mang tác dụng ngược
thì sao? Đó là điều mà những người làm Viral Marketing trên Internet
thường băn khoăn.
Chúng ta phải chấp nhận là với marketing lan truyền trên Internet, phản ứng của người tiếp nhận có thể là hai chiều: có khen, có chê, và điều đó cũng tốt vì khán giả chỉ quan tâm đến những bàn luận mang tính khách quan, họ không thích nhồi nhét vào đầu những lời lăng xê hoa mỹ về sản phẩm. Nếu bạn, hay khách hàng của bạn mong muốn một chiến dịch viral chỉ toàn những phản hồi tốt đẹp, và hô biến tất cả những bình luận trái chiều khó lọt tai, thì thành thật khuyên bạn nên tìm đến với những hình thức marketing truyền thống vốn mang tính truyền thông một chiều.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi mọi thứ trôi tự do theo luồng dư luận, vì chúng ta được trả tiền để làm marketing chứ không phải làm chuyện ruồi bu. Cho nên dù thế nào cũng cần có biện pháp để kiểm soát được sự lan truyền của thông điệp để đảm bảo nó đem lại hiệu quả tích cực, dù biết việc này không dễ dàng gì. Nếu có quá nhiều người chê, sao không cài một vài chân gỗ vào khen; nếu thông điệp bị hiểu lầm, sao không tìm cách khéo léo đính chính; nếu search trên Google tên của Event, thấy toàn những lời chê bai từ những người đã đi coi năm trước, hãy đẩy lùi các kết quả tìm kiếm tiêu cực đó qua trang 2 bằng cách “dội bom” thật nhiều những tuyên truyền tốt về sự kiện trên các trang được máy tìm kiếm ưu ái. Nhưng khán giả không phải là những con lừa cho nên chúng ta phải “chữa cháy” khéo léo, nếu quá phô sẽ chẳng khác gì đổ thêm dầu vào lửa, và lúc đó chỉ có cách chuẩn bị tinh thần cho một đợt “uýnh hội đồng” tiếp theo của dân mạng.
Chúng ta phải chấp nhận là với marketing lan truyền trên Internet, phản ứng của người tiếp nhận có thể là hai chiều: có khen, có chê, và điều đó cũng tốt vì khán giả chỉ quan tâm đến những bàn luận mang tính khách quan, họ không thích nhồi nhét vào đầu những lời lăng xê hoa mỹ về sản phẩm. Nếu bạn, hay khách hàng của bạn mong muốn một chiến dịch viral chỉ toàn những phản hồi tốt đẹp, và hô biến tất cả những bình luận trái chiều khó lọt tai, thì thành thật khuyên bạn nên tìm đến với những hình thức marketing truyền thống vốn mang tính truyền thông một chiều.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi mọi thứ trôi tự do theo luồng dư luận, vì chúng ta được trả tiền để làm marketing chứ không phải làm chuyện ruồi bu. Cho nên dù thế nào cũng cần có biện pháp để kiểm soát được sự lan truyền của thông điệp để đảm bảo nó đem lại hiệu quả tích cực, dù biết việc này không dễ dàng gì. Nếu có quá nhiều người chê, sao không cài một vài chân gỗ vào khen; nếu thông điệp bị hiểu lầm, sao không tìm cách khéo léo đính chính; nếu search trên Google tên của Event, thấy toàn những lời chê bai từ những người đã đi coi năm trước, hãy đẩy lùi các kết quả tìm kiếm tiêu cực đó qua trang 2 bằng cách “dội bom” thật nhiều những tuyên truyền tốt về sự kiện trên các trang được máy tìm kiếm ưu ái. Nhưng khán giả không phải là những con lừa cho nên chúng ta phải “chữa cháy” khéo léo, nếu quá phô sẽ chẳng khác gì đổ thêm dầu vào lửa, và lúc đó chỉ có cách chuẩn bị tinh thần cho một đợt “uýnh hội đồng” tiếp theo của dân mạng.
Đo lường, đánh giá hiệu quả:
Nếu ngay từ đầu tiên, bạn đã xác định
các mục tiêu định tính, định lượng rõ ràng thì không khó gì để đo lường
hiệu quả. Làm marketing trên Internet có một điểm thuận lợi là kết quả
thể hiện ngay bằng những con số hết sức rõ ràng do hệ thống cung cấp,
chúng ta không cần phải nghi ngờ về mức độ sai lệch như các phương pháp
đo lường của marketing truyền thống.
Bằng các công cụ thống kê việc truy cập website như Google Analytics, Getclicky, chúng ta có thể dễ dàng thống kê được lượng truy cập, các nguồn website dẫn về trang của chúng ta (vì chúng ta làm viral bằng cách tung thông điệp ra nhiều website khác nhau nên chỉ số này rất quan trọng để xác định người dùng tìm đến website của chúng ta từ những trang nào)… Bằng những công cụ như URL Builder của Google, chúng ta biết chính xác có bao nhiêu click trỏ về trang của chúng ta từ những trang web khác (cách này rất phù hợp để đo lường hiệu quả của những bài PR online). Chúng ta cũng có thể xây dựng những công cụ tracking của riêng mình nhằm phục vụ riêng cho tính đặc thù của chiến dịch.
Kết hợp cùng với các phòng ban, bộ phận khác, chúng ta có thể thu thập thêm những số liệu về doanh số, thị phần (nếu là chiến dịch viral để đẩy doanh số), số lượt đăng ký tham gia, số vé phát ra (nếu là Event), số bài dự thi (nếu là cuộc thi)…
Cuối cùng, đừng bỏ qua những thống kê định tính về phản ứng của người tiếp nhận đối với thông điệp, ảnh hưởng của thông điệp đến hình ảnh của đơn vị làm chủ thông điệp. Lượt truy cập đông đảo chứng tỏ chiến dịch viral được quan tâm, nhưng những lời khen chê của khán giả sẽ phản ánh tác động tích cực hay tiêu cực mà chiến dịch mang lại.
Bằng các công cụ thống kê việc truy cập website như Google Analytics, Getclicky, chúng ta có thể dễ dàng thống kê được lượng truy cập, các nguồn website dẫn về trang của chúng ta (vì chúng ta làm viral bằng cách tung thông điệp ra nhiều website khác nhau nên chỉ số này rất quan trọng để xác định người dùng tìm đến website của chúng ta từ những trang nào)… Bằng những công cụ như URL Builder của Google, chúng ta biết chính xác có bao nhiêu click trỏ về trang của chúng ta từ những trang web khác (cách này rất phù hợp để đo lường hiệu quả của những bài PR online). Chúng ta cũng có thể xây dựng những công cụ tracking của riêng mình nhằm phục vụ riêng cho tính đặc thù của chiến dịch.
Kết hợp cùng với các phòng ban, bộ phận khác, chúng ta có thể thu thập thêm những số liệu về doanh số, thị phần (nếu là chiến dịch viral để đẩy doanh số), số lượt đăng ký tham gia, số vé phát ra (nếu là Event), số bài dự thi (nếu là cuộc thi)…
Cuối cùng, đừng bỏ qua những thống kê định tính về phản ứng của người tiếp nhận đối với thông điệp, ảnh hưởng của thông điệp đến hình ảnh của đơn vị làm chủ thông điệp. Lượt truy cập đông đảo chứng tỏ chiến dịch viral được quan tâm, nhưng những lời khen chê của khán giả sẽ phản ánh tác động tích cực hay tiêu cực mà chiến dịch mang lại.
Có thể thấy, Viral Marketing là con
đường nhiều người muốn đi những không phải ai cũng đến nơi được. Đặc
biệt là ở Việt Nam, xu hướng này vẫn còn khá mới với các nhà quảng bá
thương hiệu trong nước, cộng đồng tham gia sáng tạo, thiết kế cho Viral
Marketing chưa nhiều. Tuy nhiên ta vẫn hy vọng cùng với sự đầu tư nghiêm
túc của các nhãn hàng cũng như công ty quảng cáo, thời gian tới sẽ có
nhiều thông điệp với quy mô và chất lượng vượt trội được tiếp tục “lan
tỏa”…
Dưới đây người viết xin điểm qua một số xu hướng đang nổi bật ở cộng đồng mạng Việt Nam:
1. Người miền Bắc yêu thích Social Media hơn người miền Nam
Tuy rằng số người sử dụng Internet ở cả
hai miền đang tương đương nhau nhưng trên các mạng xã hội, diễn đàn,
trang chia sẻ trực tuyến… những cư dân mạng đến từ miền Bắc vẫn đang áp
đảo.

Một campaign được tổ chức ở khu vực phía nam nhưng hơn 70% Fan của Facebook Fan Page là ở Hà Nội
Với xu hướng này, người làm Viral
Marketing có thể phác thảo ra những ý tưởng, cách thực hiện phù hợp nhất
dựa trên tính chất đặc trưng của con người mỗi vùng: Một cuộc thi viết
lách, sáng tạo tác phẩm… tổ chức ở miền Bắc sẽ đông người tham gia hơn
miền Nam trong khi các trò chơi, cuộc thi mang nhiều yếu tố may mắn như
tham gia để trúng iPhone/Laptop, nhận mã số may mắn để rinh hàng giảm
giá… sẽ khiến cộng đồng cư dân mạng miền Nam tích cực vận động nhau tham
gia.
2. Forum thắng thế, Micro Blog vẫn lép vế
Nếu như các dịch vụ Micro Blog như
Twitter đang làm điên đảo cả thế giới thì ở Việt Nam dân tình vẫn coi
như chưa có gì xảy ra. Sau Yahoo 360, hiện tại đối với người Việt Nam
dường như Facebook đã là quá đủ.
Ngược lại, nếu như trào lưu diễn đàn đã
qua lâu trên thế giới và hiện giờ nó đang lép vế dần so với hình thức
mạng xã hội thì ngược lại, ở Việt Nam forum vẫn đang làm mưa làm gió.
Một số diễn đàn là nơi thảo luận của một đối tượng nào đó như phụ nữ
(webtretho, lamchame…), teen (hihihehe, truongton…), sinh viên
(ngoinhachung,kenhsinhvien…), một số là nơi trao đổi những vấn đề chuyên
môn như tin học (ddth, vn-zoom), công nghệ (tinhte, handheld) hoặc là
nơi gặp gỡ của những sở thích như ô tô, xe máy (otofun, bikervietnam),
nhiếp ảnh (vnphoto, xomnhiepanh), hip hop (viethiphop)… Những diễn đàn
lớn là nơi vào ra của hàng triệu thành viên là đích ngắm của nhiều nhà
quảng cáo, viral marketing trực tuyến, phổ biến nhất là treo banner
quảng cáo, đặt box riêng, đặt sticky post, làm forum seeding…
3. Facebook càng bị chặn, netizen càng tìm cách vào
Sau khi Yahoo 360 bị công ty chủ quản
Yahoo dẹp bỏ, Facebook trở thành một “hiện tượng” tại Việt Nam, và mạng
xã hội đặt trọng tâm vào tính chất kết nối con người (people-centric)
này tăng nhanh số lượng người sử dụng đến chóng mặt.
Facebook có cho phép tạo Fan Page và đây
đã trở thành nơi quảng bá thương hiệu và tổ chức các online campaign
cực kỳ tốt cho các nhà Digital Marketing.
Nhờ cộng đồng đông đảo, những cuộc thi, event… được tổ chức trên Fan
Page đều thu hút được rất nhiều người quan tâm, và được lan truyền mạnh
nhờ những đợt tổng vận động Like, comment… của người dự thi đối với bạn
bè, người thân và cả những người không quen biết trên Facebook.
Nhưng có vẻ như Facebook đang bị những
nhà quản lý chính quyền “hắt hủi” vì nhiều lý do còn đang gây tranh cãi,
việc vào Facebook ngày càng khó khăn hơn. Nhưng chỉ cần search những
cụm từ như “không vào được Facebook”, “vào Facebook không bị chặn”… sẽ
thấy hằng ha sa số các bí kíp xóa bỏ chặn do cư dân mạng truyền tay
nhau. Vì vậy càng bị chặn, những người dùng Facebook ở Việt Nam lại càng
cố gắng tìm cách vào được Facebook, tuy nhiên vẫn có khá nhiều người
low-tech (thuật ngữ cư dân mạng dùng để chỉ những người không giỏi công
nghệ, chơi chữ từ hi-tech) đành ngậm ngùi từ bỏ cuộc chơi. Chính vì sự
suy yếu đáng kể của Facebook ở , các nhà marketing Việt Nam đang đau đầu
suy tính xem nên tiếp tục các chiến dịch viral marketing hay online
campaign ở Facebook hay là lập microsite của riêng mình.
4. Nhiều mạng xã hội của Việt Nam ngày càng cải thiện vị trí
Nhờ cơn lao đao của Facebook, nhiều MXH
Việt Nam có cơ hội được cư dân mạng “để mắt” đến nhiều hơn. Trong giới
teen, MXH Zing Me ngày càng trở nên phổ biến trong khi đó Yume.vn đang
đứng đầu trong những mạng xã hội tại Việt Nam ở phân khúc tuổi từ 18 -25
(theo thống kê của Google Ad Planner), Hẹn Ăn Trưa, Tầm Tay hay Nối… từ
lâu đã là nơi “xây nhà” của nhiều dân văn phòng. Goonline của VTC là
MXH được sản xuất theo “đơn đặt hàng” của phía Nhà nước nhằm tạo ra một
MXH “trong sạch” cho thế hệ trẻ, nhờ sự chống lưng của nhiều cơ quan
chức năng, cũng đang lớn mạnh đáng kể.
Các nhà quảng cáo cũng đang xem xét việc
chuyển chiến dịch marketing của mình từ Facebook qua các MXH Việt Nam
như Yamaha tổ chức cuộc casting “CUXI Girls” trên trang Cyworld.
5. Những Net Idol của năm
Don Nguyễn – một nhân vật nổi lên từ
trào lưu hát nhép, tiếp tục làm mục tiêu săn đón của nhiều chuyên
giaviral marketing. Những clip hài hước của Don được người dùng mạng
send link cho nhau hoặc post lên các diễn đàn một cách đầy phấn khích.
Không mời được Don quảng cáo, nhiều công ty còn ăn theo Don như trường
Anh ngữ Apollo với clip “DON hút me” nổi bật trên Nhaccuatui.com với chữ
DON cố tình được viết in hoa cũng khiến nhiều người lầm tưởng là tác
phẩm của Don và tò mò truy cập vào.

Don Nguyễn đóng vai đồng tính trong 2 clip quảng bá cho tạp chí Thế giới đàn ông
Hot không kém là Lê Kiều Như nhưng cô
này lại nổi tiếng ở những khía cạnh gây tranh cãi: chụp hình mát mẻ, ra
cuốn tiểu thuyết “Sợi xích” gây nhiều tranh cãi về tính nghệ thuật và
văn hóa, nhưng các nhà phát hành game lại rất ưu ái các “scandal girl”,
bằng chứng là SGame mời cô làm Idol cho game “Thần tiên vui vẻ”, tương
tự sự kiện Hoàng Thùy Linh được mời làm Idol cho game Linh Vương của VTC
Game khi scandal của cô còn xôn xao trong cộng đồng mạng vào năm 2009.
Hiệu ứng Viral marketing cho những sự kiện như thế này dù còn gây tranh
cãi nhưng tỏ ra khá tốt vì mức độ lan truyền và bàn tán rất cao.
Ngô Bảo Châu là một trong những từ khóa
mà cư dân mạng tìm kiếm nhiều nhất trong năm 2010 theo báo cáo của
Yahoo, cho thấy tài năng toán học của Việt Nam vẫn đang là một tâm điểm
gây chú ý cho cộng đồng mạng. Điều này cũng phản ánh rằng, không phải
những cái gì liên quan đến sex, shock, scandal… mới gây chú ý cho thế hệ
trẻ, nhưng nhiều nhà marketing lại chưa quan tâm khai thác những khía
cạnh mới, hoặc thích đi theo con đường mòn để lăng xê thương hiệu của
mình một cách nhanh nhất.
Trào lưu hot boy, hot girl, ca sĩ teen…
do trang tin lá cải Kênh14 lăng xê lần đầu tiên nay đã giảm nhiệt so với
một, hai năm trước nhưng vẫn đang chưa hết sốt trong thế giới ảo tại
Việt Nam. Thủy Top, Hoàng Thùy Linh đã dần dần ít xuất hiện trên mặt
báo, Pé Sam, Midu yên ắng hơn, Elly Trần, Tâm Tít đang trên đỉnh cao
phong độ, những bộ ảnh phô vòng một đẫy đà của cô nàng Elly được nhiều
cư dân mạng tích cực truyền nhau. Yến Trang, Thủy Tiên… tiếp tục tìm
cách gây shock để khỏi bị lu mờ mặc dù độ tuổi không còn teen nữa. Tuy
nhiều nhà quảng cáo vẫn đang sử dụng các Hot Boy, Hot girl này cho các
chiến dịch quảng bá thương hiệu của họ trong giới trẻ nhưng năm nay chưa
có online campaign nào đáng kể ghi nhận vai trò và tầm ảnh hưởng của
hot boy, hot girl.
Khi mà ở Việt Nam, từ “blog” đồng nghĩa
với Yahoo 360, nhiều hot blogger như OnlyU, Tắc Kè, Quách Đại Ca… là cái
tên mà ai cũng biết thì khi Yahoo 360 ra đi họ lại bị phân tán đi khắp
nơi, vì thế tầm ảnh hưởng bị suy yếu hơn lúc trước, tuy nhiên họ vẫn là
mục tiêu “chăm sóc” của nhiều người làm viral marketing trên mạng. Các
blogger mảng giải trí như Robbey, Gào… vẫn đều đều nhận được các lời mời
quảng cáo, giới thiệu cho các thương hiệu. Họ có hệ thống cả chục blog,
profile MXH thuộc các dịch vụ cung cấp blog khác nhau feed liên tục các
nội dung do họ đưa lên, vì vậy bạn dùng dịch vụ blog nào hay MXH nào
phổ biến ở Việt Nam thì đều có cơ hội kết nối được với họ.
6. Green Marketing gây hiệu ứng Viral rất tốt
Ngày 26 tháng 3 năm nay Giờ Trái Đất lại
tiếp tục hứa hẹn trở thành tâm điểm chú ý. Năm ngoái, các bạn trẻ hào
hứng chuyển cho nhau thông điệp đề nghị tắt điện trong 1h, những chiến
dịch quảng cáo ăn theo trào lưu này cũng gây được nhiều chú ý và xây
dựng được hình ảnh tích cực cho sản phẩm, thương hiệu.
Những chiến dịch vận động vì môi trường
xanh trong cộng đồng mạng cũng có thể là gợi ý tốt để các công ty tung
ra những sản phẩm, chiến dịch viral marketing bám sát nhịp đập của cuộc
sống. Chẳng hạn như chiến dịch “Xoắn chai rỗng và giúp đưa nước sạch về
cộng đồng” của nước uống đóng chai Dasani (Coca cola), hay xe PCX
(Honda) tắt máy khi dừng nhằm hạn chế khí thải… là những thông điệp gây
nhiều cảm tình cho các bạn trẻ.
(ST)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét